Bùng nổ khí đốt tự nhiên ở Địa Trung Hải có thể trở thành nguy cơ mới đối với sự ổn định của khu vực

17:42 | 24/08/2021

|
(PetroTimes) - Trong hai thập kỷ qua, một loạt các phát hiện khí đốt tự nhiên lớn ở phía đông Địa Trung Hải đã tác động sâu sắc đến quan hệ kinh tế quốc tế của khu vực. Tiềm năng địa chất cho thấy những khám phá này chỉ là bước khởi đầu trên toàn Địa Trung Hải và có thể làm thay đổi đáng kể địa chính trị của khu vực.
Bùng nổ khí đốt tự nhiên ở Địa Trung Hải có thể trở thành nguy cơ mới đối với sự ổn định của khu vực
Giàn khoan của ENI, Nil Delta, Ai Cập. Ảnh: ENI

Petrotimes xin giới thiệu nghiên cứu của tác giả nổi tiếng Joseph V. Micallef đăng trên trang Military, phân tích những thay đổi địa chính trị có thể xảy ra nếu tiềm năng giàu hydrocarbon của Biển Địa Trung Hải được khai phá.

Hydrocarbon ở Địa Trung Hải

Mặc dù các quốc gia Bắc Phi bao quanh bờ phía nam của Địa Trung Hải đều là các nước sản xuất hydrocacbon, khu vực Địa Trung Hải mới chỉ được khám phá chưa lâu. Các kiến ​​tạo địa chất kết hợp với nhau đã tạo ra một môi trường hoàn hảo để lưu trữ các mỏ dầu và khí đốt. Tiềm năng hydrocarbon ước tính của khu vực chứa khoảng 50 tỷ thùng dầu và lên tới 500 nghìn tỷ feet khối khí tự nhiên.

Những phát hiện lớn đã được thực hiện ở khu vực Nile Delta và Bể Levantine, cả một vùng rộng lớn ở phía bắc và phía đông của Đồng bằng sông Nile, kéo dài tới phía nam của Síp và đến bờ biển phía đông Địa Trung Hải. Theo Cơ quan Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ, chỉ riêng hai khu vực này đã có trữ lượng ước tính khoảng 345 TCF khí đốt tự nhiên và hơn hai tỷ thùng dầu.

Bể Levantine chưa được khám phá đầy đủ, bảy bể trầm tích khác ở Địa Trung Hải thậm chí còn được khám phá ít hơn, ước tính 500 TCF khí có thể chỉ là con số không đáng kể. Hơn nữa, ở khu vực Địa Trung Hải Hầu các Big Oil hầu như chưa có hoạt động khoan sâu nào đáng kể. Điều đó cho thấy tiềm năng hydrocarbon của Biển Địa Trung Hải có thể lớn hơn nhiều.

Khí đốt tự nhiên và Địa chính trị Địa Trung Hải

Việc phát hiện ra các mỏ khí tự nhiên lớn ở phía đông Địa Trung Hải đã có tác động địa chính trị trên phạm vi rộng. Nếu những khám phá này tiếp tục, và tiềm năng hyđrocarbon của khu vực được hình thành, tác động sẽ còn lớn hơn nhiều.

Các phát hiện ở Leviathan và Tamir đã biến Israel từ một nhà nhập khẩu ròng hydrocarbon thành một nhà xuất khẩu ròng. Tương tự như vậy, mỏ Zohr, khi được phát triển hoàn chỉnh, cũng sẽ đưa Ai Cập trở thành nước xuất khẩu khí đốt ròng. Các khám phá về khí đốt ở Levantine cũng dẫn đến mối quan hệ hợp tác chặt chẽ và sự ấm lên rõ rệt trong quan hệ của Israel với Hy Lạp và Síp. Trong lịch sử, cả hai quốc gia này đều có xu hướng đứng về phía Chính quyền Palestine và thường có xích mích với chính phủ Israel.

Việc xuất khẩu khí đốt của Israel sang các nước láng giềng và khả năng tham gia vào hoạt động thăm dò khí đốt ở những nơi khác trên Địa Trung Hải có thể mang lại cho Israel đòn bẩy ngoại giao đáng kể và dẫn đến cải thiện quan hệ với nhiều nước láng giềng Địa Trung Hải, cũng như khả năng tiếp cận thị trường xuất khẩu. ở Trung Đông và khu vực Bắc Phi.

Các phát hiện khí đốt lớn ở các khu vực thuộc Bể Levantine cũng có thể hồi sinh các quốc gia như Lebanon và Syria. Nhưng mặt khác, nguồn tài nguyên giàu hydrocacbon cũng có thể thúc đẩy bạo lực ở đây.

Ý đã đóng một vai trò quan trọng nhưng nói chung là phụ trong việc phát triển dự trữ khí đốt của Địa Trung Hải. ENI, công ty năng lượng của Ý, là nhà điều hành mỏ khí đốt Zohr ở Ai Cập. Có khả năng phần lớn lượng khí đốt xuất khẩu của Địa Trung Hải sẽ chảy qua Ý để kết nối với phần còn lại của mạng lưới khí đốt của Châu Âu. Ý cũng đã tham gia sâu rộng vào việc thăm dò hydrocacbon ở Bắc Phi, đặc biệt là ngoài khơi bờ biển của Libya - một khu vực mà ENI biết rõ và tiềm năng hydrocacbon của họ hầu như không bị ảnh hưởng.

Thổ Nhĩ Kỳ

Mức tiêu thụ khí đốt của Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng gấp ba lần trong hai thập kỷ qua và đang tiếp tục tăng nhanh. Tuy nhiên, nó chỉ có thể cung cấp khoảng 1% nhu cầu từ các nguồn trong nước. Gần 50% lượng khí đốt của Thổ Nhĩ Kỳ đến từ Nga, 18% đến từ Iran,và 11% đến từ Azerbaijan, còn lại từ các nguồn khác.

Lượng khí đốt mà Ankara nhập khẩu tương đối dễ mở rộng, nhưng Ankara cũng cảnh giác với việc ngày càng phụ thuộc quá nhiều vào Moscow về nhu cầu năng lượng. Trữ lượng khí đốt tự nhiên đáng kể ở Trung Á, Iran và Iraq, nhưng việc khai thác những nguồn cung cấp đó có thể sẽ yêu cầu các đường ống bổ sung. Tuyến đường Biển Caspi-Azerbaijan-Georgia là tuyến đường chính trị đáng tin cậy nhất nhưng đòi hỏi phải vượt qua địa hình cực kỳ gồ ghề.

Thổ Nhĩ Kỳ tin vào vị trí trung tâm năng lượng giữa châu Âu, Nga và Trung Á của họ với hơn một chục đường ống dẫn khí đốt từ Nga và Trung Á đến Thổ Nhĩ Kỳ, và từ đó đến châu Âu.

Ankara đã đề xuất một đường ống Israel-Thổ Nhĩ Kỳ để chuyển khí đốt từ Bể Levantine đến Thổ Nhĩ Kỳ. Với nhu cầu năng lượng ngày càng tăng và sự gần gũi của nó, Thổ Nhĩ Kỳ là một thị trường hợp lý cho khí đốt phía đông Địa Trung Hải. Tuy nhiên, cả Israel, Ai Cập và Síp, ba quốc gia mà Ankara có quan hệ ngoại giao đặc biệt khó khăn, đều không ủng hộ ý tưởng này. Thay vào đó, họ đã đề xuất đường ống East-Med để đưa khí đốt đến Hy Lạp và ở đó kết nối nó với Ý và phần còn lại của mạng lưới khí đốt châu Âu thông qua Đường ống xuyên Adriatic.

Bùng nổ khí đốt tự nhiên ở Địa Trung Hải có thể trở thành nguy cơ mới đối với sự ổn định của khu vực

Bản đồ đường ống TANAP và hệ thống đường ống khí qua Thổ Nhĩ Kỳ. Nguồn: Zeusintel

Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan đã bày tỏ lo ngại rằng nếu một lượng đáng kể khí đốt Địa Trung Hải chảy đến châu Âu, thì vai trò của Thổ Nhĩ Kỳ như một trung tâm năng lượng có thể bị gạt ra ngoài lề. Đó là lý do tại sao ông nhấn mạnh rằng, nếu không có sự tham gia của Thổ Nhĩ Kỳ, sẽ không thể phát triển đầy đủ các nguồn dự trữ khí đốt phía đông Địa Trung Hải.

Thêm vào đó, Thổ Nhĩ Kỳ không phải là một bên ký kết Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển, hay UNCLOS. Tranh chấp giữa Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp và Síp bị lên án bởi nhiều quốc gia Địa Trung Hải, cũng như Hoa Kỳ và EU.

Thực tế, việc phát triển các mỏ khí đốt ở Levantine sẽ dễ dàng hơn với sự hợp tác của Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, Israel, Cyprus và Ai Cập đang chống lại nỗ lực của Thổ Nhĩ Kỳ trong việc phát triển các mỏ khí đốt đó. Thổ Nhĩ Kỳ đã ám chỉ rằng họ sẽ chặn việc đặt đường ống dẫn dầu East-Med và có thể cử lực lượng quân sự làm việc này. Một cuộc đối đầu sẽ chỉ cô lập nó hơn nữa và có khả năng dẫn đến một cuộc đối đầu với EU, và thậm chí có thể với Hoa Kỳ.

Nga

Cho đến nay, Nga đã đóng một vai trò nhỏ trong việc phát triển các mỏ khí ở Levantine Basin. Các công ty năng lượng nhà nước của Nga đã đề nghị hỗ trợ tài chính cho việc phát triển các mỏ khí đốt của Síp, nhằm nâng cao vai trò của Nga ở khu vực này.

Sản lượng khí hiện tại từ các mỏ khí đốt ở Bể Levantine không đáng kể so với mức tiêu thụ khí đốt của EU và xuất khẩu của Nga. EU tiêu thụ khoảng 16 TCF khí đốt tự nhiên mỗi năm, khoảng 40% trong số đó đến từ Nga.

Tuy nhiên, nếu sản lượng khí đốt từ khu vực Địa Trung Hải gia tăng đáng kể tương tự như khí của Bể Levantine, thì khu vực này có thể bùng nổ khí đốt tự nhiên trong thời gian dài.

Chính sách của EU muốn đa dạng hóa các nguồn năng lượng để tránh trở nên phụ thuộc vào khí đốt của Nga. Nếu xảy ra với sự bùng nổ khí đốt ở Địa Trung Hải, EU sẽ hạn chế sự nhập khẩu khí đốt của Nga, giá khí cũng sẽ giảm.

Những vấn đề chính trị sẽ khó khăn cho bùng nổ khí đốt tự nhiên ở Địa Trung Hải. Libya vẫn đang trong một cuộc nội chiến. Tunisia và Algeria chưa thể tăng sản lượng. Nhiều ranh giới trên biển vẫn chưa được phân định rõ ràng, đặc biệt là vùng biển xung quanh Libya và các phần của bờ biển Balkan của Adriatic.

Pháp và Tây Ban Nha hiện đang có lệnh cấm phát triển hydrocacbon ngoài khơi ở Địa Trung Hải, nhưng chính sách có thể đảo ngược nếu thấy triển vọng phát hiện khí đốt lớn. Chính sách đối ngoại và năng lượng của Thổ Nhĩ Kỳ ở phía đông Địa Trung Hải có khả năng gây bất ổn trong khu vực và có thể gây ra cuộc đối đầu với một hoặc nhiều nước láng giềng trên biển.

Hoa Kỳ

Hoa Kỳ đóng một vai trò thứ yếu trong bức tranh. Dưới thời chính quyền Trump, Mỹ đã thúc đẩy EU lấy LNG của Mỹ thay cho khí đốt của Nga. Với chính sách khí hậu của mình, chính quyền Biden khó có thể thúc đẩy xuất khẩu LNG. Hoa Kỳ đã hỗ trợ phát triển các nguồn hydrocacbon ở phía đông Địa Trung Hải, coi đây là một cách để tăng cường kinh tế cho cả Israel và Ai Cập, hai đồng minh quan trọng của Mỹ trong khu vực, mặc dù khí đốt Địa Trung Hải sẽ cạnh tranh với xuất khẩu LNG của Hoa Kỳ.

Trung Quốc

Trung Quốc đã không tham gia trực tiếp vào việc phát triển các nguồn khí đốt Địa Trung Hải. Dự trữ khí đốt ở Trung Á và Trung Đông gần Trung Quốc hơn và dễ dàng hơn trong việc tiếp cận và vận chuyển. Thông qua sáng kiến ​​Vành đai và Con đường, các công ty nhà nước Trung Quốc đã đầu tư rất nhiều vào các dự án cơ sở hạ tầng ở khu vực Địa Trung Hải. Các dự án này bao gồm một loạt các khoản đầu tư vào các cơ sở cảng và các khu công nghiệp trên khắp Địa Trung Hải.

Cụ thể, Tập đoàn Cảng Quốc tế Thượng Hải đã mua được hợp đồng 25 năm để quản lý Cảng Haifa, trong khi China Harbour Engineering đang xây dựng một nhà ga cảng mới ở Ashdod, Israel. Tập đoàn vận tải biển Trung Quốc COSCO đã mua 51% cổ phần của Noatum Port Holdings, sở hữu các cảng container ở Bilbao và Valencia, Tây Ban Nha, mua 67% cổ phần Cảng Piraeus của Hy Lạp và cùng với Qingdao Port International đầu tư vào cảng Container Vado Ligure ở Ý. Euro-Asia Oceangate mua lại 64,5% cổ phần tại Kumport Terminal ở Ambarli, tại cửa eo biển Bosporus trên Biển Đen. Những khoản đầu tư trị giá khoảng ba tỷ euro.

Thúc đẩy xung đột

Khí đốt Địa Trung Hải có thể sẽ chuyển đến các thị trường châu Âu thông qua các đường ống, nhưng sự phát triển trên toàn Địa Trung Hải về nguồn khí đốt của khu vực sẽ khiến cảng và các khu công nghiệp chiếm vị trí then chốt. Chi phí phát triển sáu mỏ khí đốt chính ở Levantine Basin sẽ vào khoảng 20 - 25 tỷ USD. Nếu bùng nổ khí đốt trên toàn Địa Trung Hải có thể cần đến 100 tỷ đô la đầu tư mới.

Sự bùng nổ khí đốt tự nhiên của Địa Trung Hải hoàn toàn có thể xảy ra. Các khoản đầu tư sẽ đổ vào các bể trầm tích khác để tìm triển vọng giàu có ở đây.

Và như vậy, Địa Trung Hải rất có thể phát triển thành một nhà cung cấp khí đốt tự nhiên lớn cho châu Âu, gây tổn hại đến xuất khẩu khí đốt của Nga và ở mức độ thấp hơn là các kế hoạch xuất khẩu LNG của Mỹ.

Sự phát triển như vậy sẽ khiến các quốc gia Địa Trung Hải nhỏ hơn như Síp, Malta, Albania hoặc Croatia có lượng hydrocacbon khổng lồ. Nó cũng có thể tạo điều kiện cho việc xây dựng lại các quốc gia như Lebanon và Syria. Nó sẽ dẫn đến những liên kết và liên minh mới, nhưng cũng có thể sẽ thúc đẩy xung đột giữa những quốc gia có tiềm năng khí và những quốc gia không có.

Sự giàu có về hydrocacbon là con dao hai lưỡi có thể tạo ra nhiều xung đột xã hội hơn ở các quốc gia yếu kém, đặc biệt là các quốc gia dọc theo vành đai Bắc Phi.

Đối với Thổ Nhĩ Kỳ việc phát hiện ra khí đốt tự nhiên có thể dẫn đến lập trường đối đầu nhiều hơn giữa Thổ Nhĩ Kỳ và các nước láng giềng trên biển.

Nói một cách đơn giản, sự bùng nổ khí đốt ở Địa Trung Hải sẽ tạo ra nhiều cơ hội kinh tế nhưng cũng có nguy cơ mới đối với sự ổn định của khu vực.

Elena