Triển vọng thị trường nhiên liệu hàng không bền vững (Kỳ cuối)
Dự báo một số kịch bản SAF tương lai
Các chính sách bảo hộ ở EU và/hoặc Vương quốc Anh áp dụng thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm tái tạo nhập khẩu, nghĩa là các cơ sở trong nước có vai trò mạnh mẽ hơn để thực hiện quy định nhiệm vụ về SAF. Điều này có thể được xúc tiến nếu việc chuyển đổi ở Hoa Kỳ từ tín dụng thuế dành cho pha trộn nhiên liệu của liên bang sang tín dụng sản xuất (BTC to CFPC) (2025), điều này sẽ làm giảm nhu cầu nội địa của Hoa Kỳ, đồng thời cho phép sản phẩm được trợ cấp của Hoa Kỳ tràn ngập thị trường nước ngoài. Hiện các chính sách của EU và Vương quốc Anh cũng như các chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ bị bao phủ bởi nhu cầu tự nguyện, điều này sẽ làm phức tạp thêm triển vọng này.
![]() |
Ảnh minh họa |
Nhu cầu SAF tăng từ các thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc và CH Singapore. Điều này có thể làm giảm cả việc xuất khẩu SAF và nguyên liệu thô hiện đang được xuất khẩu sang thị trường châu Âu và Hoa Kỳ. Khả năng thực hiện các quy định yêu cầu về SAF của Trung Quốc đã được đề cập qua một số nguồn và có thể duy trì ở mức từ 2% đến 5% (2030). Nếu Chính phủ Trung Quốc lựa chọn quy định bắt buộc tỷ lệ pha trộn 5%, tương đương 2,5 Mt SAF thì điều này sẽ có tác động lớn đến thị trường SAF toàn cầu. Đối với thị trường EU nói riêng, điều này cũng có thể làm gia tăng tính cấp bách của việc chuyển đổi sang các đường hướng khác không phải công nghệ HEFA nhằm đáp ứng các mục tiêu trong quy định ReFuelEU.
Việc tăng cường tham vọng trong lĩnh vực hàng hải và nhu cầu trên giao thông đường bộ mới có khả năng giúp thúc đẩy một số công suất của SAF nhằm tối ưu hóa cho động cơ diesel tái tạo. Việc mở rộng Hệ thống EU ETS nhằm đáp ứng mục tiêu của hàng hải viễn dương có thể bắt đầu quá trình này và nhu cầu giao thông đường bộ cao hơn có thể được xúc tiến nếu tiến trình phát triển xe điện EV chậm lại và có lẽ kết hợp với an ninh năng lượng tốt hơn và các yếu tố môi trường góp phần thúc đẩy nhu cầu đa dạng hóa từ nhiên liệu hóa thạch.
Triển vọng SAF đến năm 2050
Để ngành hàng không toàn cầu đạt mục tiêu net-zero vào năm 2050, IATA ước tính sẽ cần khoảng 360 triệu tấn SAF. Công suất khối lượng này phụ thuộc vào sự tăng trưởng của nhu cầu hàng không trong ba thập kỷ tới đây cũng như sự phát triển của các lĩnh vực công nghiệp khác trong việc khó loại bỏ carbon bằng cách sử dụng máy bay dùng nhiên liệu hydrogen và điện, vận hành và cải thiện cơ sở hạ tầng và các khoản đền bù.
Trong phân tích của mình, chúng tôi hạn chế sự tăng trưởng của SAF bằng tốc độ triển khai tối đa và tính sẵn có của nguyên liệu cho từng lộ trình. Chúng tôi ước tính công suất SAF toàn cầu có thể tăng lên gần 250 Mt (2050), nếu việc triển khai các đường hướng mới trong việc sử dụng nguyên liệu sinh khối và hydrogen xanh green nhằm làm giảm thiểu rủi ro trong những năm tới và tăng tốc nhanh chóng sau đó. Ngoài ra, nó đòi hỏi phải huy động nhanh chóng của chuỗi cung ứng nguyên liệu mới, đặc biệt là việc sử dụng cây cối che phủ và cây trồng lâu năm để kích thích tăng trưởng theo lộ trình công nghệ HEFA, đồng thời tận dụng chất thải rắn đô thị, chất thải nông nghiệp và lâm nghiệp cho quá trình sản xuất rượu thành nhiên liệu cho máy bay phản lực (AtJ) và quá trình khí hóa + Fischer Tropsch (gasification + Fischer Tropsch: G +FT).
Nguồn nguyên liệu sẵn có cho lộ trình e-SAF
Trong phân tích của mình, chúng tôi tập trung vào ba dòng nguyên liệu chính là dầu và chất béo thải/có hàm lượng ILUC thấp cho lộ trình công nghệ HEFA, vật liệu cellulosic và chất thải rắn đô thị (municipal solid waste-MSW) có nghĩa là chất thải rắn sinh hoạt, thương mại/bán lẻ và/hoặc cơ quan, theo đó, MSW cho lộ trình sinh khối (AtJ và G+FT) và hydrogen xanh green cho lộ trình e-SAF. Sự sẵn có của nguyên liệu SAF phụ thuộc vào tổng số sẵn có của các nguyên liệu này, trong đó yêu cầu của ngành hàng không có thể đưa ra đối với các nguyên liệu này và sản lượng SAF từ các nguyên liệu này. Chúng tôi sử dụng dữ liệu công khai để ước tính tính sẵn có trên toàn cầu của các nguyên liệu thô này từ năm 2030 đến năm 2050, theo đó, tính sẵn có của lộ trình công nghệ HEFA dựa trên thảo luận công khai của hai hãng năng lượng hàng đầu ENI SpA (CH Ý) và Neste (CH Phần Lan) thì tính sẵn có của hydrogen xanh green như nêu tại các ấn phẩm của Hội đồng hydrogen và nghiên cứu của công ty McKinsey song tiềm năng sinh khối dựa trên báo cáo của IEA.
Đối với lộ trình công nghệ HEFA, chúng tôi giả định ngành hàng không có thể yêu cầu 50% lượng dầu và mỡ thải được thu gom từ năm 2030 đến năm 2040, tăng lên 60% (2050) nhờ điện khí hóa vận tải đường bộ và khả năng chuyển đổi nhiên liệu trong lĩnh vực hàng hải.
Đối với các lộ trình sinh khối, chúng tôi giả định ngành hàng không có thể yêu cầu 20% sinh khối sẵn có, chưa tính đến các thách thức vận chuyển của nguyên liệu thô có mật độ năng lượng thấp và các thách thức kỹ thuật để tổng hợp các loại sinh khối khác nhau trong một cơ sở sản xuất SAF. Tuy vậy, ngành hàng không sẽ phải cạnh tranh với các lĩnh vực khác về sinh khối, chẳng hạn như các phương thức vận tải khác (đường bộ, hàng hải), hóa chất và công nghiệp. Tuy nhiên, vì ngành hàng không không có lựa chọn nào khác ngoài việc sử dụng chất lỏng hydrocarbon, chúng tôi kỳ vọng mức sẵn sàng chi trả trong ngành hàng không đủ cao để có thể yêu cầu đền bù với mức 20%. Đồng thời, các nhà máy chế biến nhiên liệu tái tạo sử dụng nguyên liệu sinh khối sẽ sản xuất nhiều loại hydrocarbon khác ngoài nhiên liệu máy bay, như dầu diesel, LPG và naphtha. Những cơ sở hợp tác sản xuất này sẽ góp phần gia tăng nhu cầu về các phân tử tái tạo trong các lĩnh vực sử dụng cuối khác nhau.
Đối với lộ trình e-SAF, chúng tôi giả định yêu cầu 20% về sản xuất hydrogen xanh green. Chúng tôi không tính đến các hạn chế tiềm năng về nguyên liệu đối với CO₂ sinh học cần thiết cho sản xuất e-SAF bởi vì phạm vi sẵn có của CO₂ sinh học cho đến năm 2050 khác nhau tùy theo mức độ rộng lớn khác nhau. Do CO₂ được thu hồi và vận chuyển dễ dàng hơn so với hydrogen nên chúng tôi cho rằng việc sản xuất hydrogen sẽ là hạn chế chính.
Triển khai công suất
Với những giả định nêu trên, việc triển khai sử dụng SAF đến năm 2050 bị giới hạn ở tốc độ phát triển tối đa mà phần lớn được thúc đẩy bởi chi tiêu vốn đầu tư đổ vào SAF. Hiện cần có khoảng từ 500 đến 800 cơ sở chế biến, lọc SAF mới đủ để đáp ứng sản lượng 250 Mt SAF. Giả sử ước tính mỗi cơ sở sản xuất, chế biến SAF cần có 2 tỷ USD tiền đầu tư thì điều này thể hiện khoản đầu tư tích lũy hơn 1 nghìn tỷ USD.
Hiện chi phí vốn đầu tư cần thiết để phát triển từ 500 đến 800 nhà máy chế biến, lọc SAF tương ứng với CAPEX trung bình hàng năm là 40 tỷ USD trong khoảng thời gian từ năm 2025 đến năm 2050. Như vậy, con số này gần tương đương với 8% CAPEX dầu khí thượng nguồn hàng năm trên toàn cầu vào năm 2019./.
Link nguồn:
https://www.efuel-alliance.eu/fileadmin/Downloads/SAF-Market-Outlook-2024-Summary.pdf
Tuấn Hùng
Efuel-alliance
-
Kazakhstan sẽ cạnh tranh với Nga để giành thị phần khí đốt tại Trung Quốc
-
Petrovietnam và KBR ký Bản ghi nhớ hợp tác về công nghệ xanh và nhiên liệu hàng không bền vững
-
Các dự án và thỏa thuận về nhiên liệu hàng không bền vững tại Châu Á
-
Trung Quốc lưu trữ khối lượng dầu thô lớn nhất trong 14 tháng, đâu là nguyên nhân?