Sử dụng CO2 để khai thác dầu mỏ có tác động gì đến môi trường?
Một báo cáo mới cảnh báo rằng việc sử dụng carbon dioxide thu được để giúp khai thác dầu khí sẽ không làm giảm lượng khí thải nhà kính. Hình minh hoạ |
Một báo cáo mới cảnh báo rằng việc sử dụng carbon dioxide thu được để giúp khai thác dầu khí sẽ không làm giảm lượng khí thải nhà kính và có thể gây ra những lo ngại mới về sức khỏe cộng đồng.
Các nhà hoạt động cho biết quy trình này, được gọi là thu hồi dầu tăng cường bằng carbon dioxide, hay EOR, đã được ngành công nghiệp dầu mỏ quảng cáo là một công cụ giảm thiểu biến đổi khí hậu mặc dù có bằng chứng ngược lại.
Báo cáo dài 48 trang do Bold Alliance và Science and Environmental Health Network biên soạn, nêu rõ các hậu quả về môi trường, sức khỏe cộng đồng và kinh tế của EOR.
Các quan chức của Bold và SEHN đã chỉ trích các chính sách ủng hộ việc thu hồi carbon hiện tại của chính phủ trong một cuộc họp báo sau khi báo cáo được công bố.
Giám đốc điều hành của SEHN Carolyn Raffensperger cho biết: “Thu hồi dầu tăng cường không mang lại lợi ích cho công chúng và cũng không vì lợi ích công cộng”.
Sandra Steingraber, một nhà khoa học cấp cao của SEHN, đã phản bác lại những tuyên bố rằng EOR thân thiện với môi trường và gọi EOR là “kỹ thuật fracking mới”.
Bà Steingraber cho biết: “Đây là một vấn đề khí hậu được ngụy trang thành giải pháp khí hậu. Nếu bạn còn nhớ, theo ngôn ngữ của thời đại, thì kỹ thuật fracking được gọi là cầu nối tới tương lai, cầu nối tới năng lượng tái tạo. Và trên thực tế, hiện chúng ta hiểu rằng các hoạt động thủy lực phá vỡ đá phiến này ở Bắc Mỹ đã thúc đẩy lượng khí thải methane toàn cầu tăng đột biến”.
Theo bà Steingraber, EOR thải ra nhiều carbon dioxide, hay CO2, vào khí quyển hơn là lượng khí CO2 được đưa xuống lòng đất vì nó tiếp tục sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch của quốc gia này. Báo cáo cho thấy việc đốt dầu thu được từ EOR thải ra ít nhất gấp đôi lượng carbon dioxide được bơm xuống lòng đất trong quá trình này.
Báo cáo cũng lưu ý rằng thu hồi dầu tăng cường bằng carbon dioxide (EOR) gây ra “mối đe dọa đáng kể đối với sức khỏe cộng đồng”.
Giám đốc khoa học của SEHN Ted Schettler giải thích việc tiếp xúc với các chất ô nhiễm được thải ra trong suốt quá trình này có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim, hen suyễn và ung thư phổi. Đối với phụ nữ mang thai, nguy cơ sinh non, trẻ nhẹ cân và sinh non cũng tăng cao.
Những người tham gia báo cáo tại cuộc họp báo cũng đã chỉ trích các chính sách thuế hiện tại của chính phủ, trong đó cung cấp khoản tín dụng thuế cho các công ty đối với mỗi tấn CO2 được thu giữ và lưu trữ.
Giám đốc Chính sách của Food and Water Watch Jim Walsh cho biết việc xóa bỏ các khoản tín dụng thuế này nên là ưu tiên hàng đầu của bất kỳ chính trị gia nào.
“Quốc hội trước tiên phải hành động để xóa bỏ hàng tỷ đô la tín dụng thuế cho khoản trợ cấp thu giữ carbon này. Đây nên là ưu tiên hàng đầu của các đảng viên Cộng hòa, những người phản đối sự lãng phí của chính phủ và các đảng viên Dân chủ quan tâm đến việc bảo vệ khí hậu và sức khỏe cộng đồng. Đó được xem là một giải pháp lưỡng đảng thực sự mà các thành viên của Quốc hội cần phải cùng nhau thực hiện”, ông Walsh nói.
Báo cáo kêu gọi các quan chức chính phủ chấm dứt việc hỗ trợ dự án CO2 EOR để bảo vệ môi trường và chống biến đổi khí hậu.
Theo báo cáo, “CO2 EOR là một sự thất bại về mặt đạo đức, một thất bại về khí hậu và là mối đe dọa đối với sức khỏe cộng đồng và môi trường, trong khi tất cả đều được tài trợ công khai. CO2 EOR là hy vọng cuối cùng tốt nhất cho ngành công nghiệp nhiên liệu hóa thạch để tiếp tục khai thác dầu từ lòng đất. Phương pháp này phải bị chấm dứt”.
Nh.Thạch
AFP
- Ngành dầu khí chinh phục biên giới mới khi lựa chọn con đường đúng đắn cho vận hành từ xa
- Nỗi lo tràn dầu gia tăng khi tàu chở dầu từ chối sử dụng hoa tiêu của Đan Mạch
- Chuyển đổi số trong ngành dầu khí: Tận dụng công nghệ để tăng cường hiệu quả và thúc đẩy bền vững
- BP và NASA ký kết thỏa thuận nhằm thúc đẩy công nghệ năng lượng và không gian
- Malaysia triển khai mạng 5G tại cơ sở dầu khí của Petronas