Bước đi xuống "địa ngục" của một DNNN Trung Quốc

13:56 | 28/11/2020

372 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Như DDDN đã đưa tin, có một làn sóng vỡ nợ của các DNNN Trung Quốc thời gian gần đây. Cuộc phá sản của tập đoàn Huachen dưới đây chính là một trong những trường hợp điển hình của làn sóng trên.

Vào tháng 10 năm 2003, chiếc sedan BMW 325i đầu tiên do Trung Quốc sản xuất đã lăn bánh thuộc sở hữu của thương hiệu xe sang của Đức và đối tác liên doanh của nó, Brilliance, một công ty con của tập đoàn ô tô Huachen Group.

Bước đi xuống

Brilliance Auto - một liên doanh giữa Huachen và BMW đang trên bờ vực của sự phá sản.

Đó là một cột mốc quan trọng đối với thương hiệu xứ Bavaria ở Trung Quốc, nơi những chiếc xe của họ đã “đánh chiếm” một trong những thị trường lớn nhất thế giới. Trong gần hai thập kỷ tiếp theo, liên doanh này là một “con gà đẻ trứng vàng” cho cả BMW và Huachen, được điều hành bởi chính quyền của tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc.

Nhưng trong tháng này, Huachen đứng trên bờ vực phá sản, họ vỡ nợ 6,5 tỷ nhân dân tệ (987,48 triệu USD). Các cơ quan quản lý Trung Quốc đã mở một cuộc điều tra để kết luận sự đi xuống của “đứa con cưng” nhà nước này.

Các vụ vỡ nợ của Huachen và hai công ty nhà nước khác của Trung Quốc đã khiến các nhà đầu tư nước này tức giận, những người nói rằng niềm tin của họ “bị đánh cắp” khi đã tin tưởng vào bảng xếp hạng của các công ty với tài chính hợp lý và sự hậu thuẫn của nhà nước.

Một cuộc kiểm tra hồ sơ trái phiếu cũng như các cuộc phỏng vấn với các cựu nhân viên và chuyên gia của Huachen cho thấy, nhà sản xuất ô tô đã đi những bước sai lầm trong chiến lược phát triển của mình.

BMW chia sẻ rằng, hoạt động của liên doanh sẽ “không bị ảnh hưởng trực tiếp bởi những khó khăn về thanh toán” của tập đoàn Huachen. Công ty Đức đã đồng ý trả 3,6 tỷ euro (4,2 tỷ USD) vào năm 2022 để mua thêm 25% cổ phần trong liên doanh với Brilliance, một thỏa thuận có sự trung gian vào năm 2018 bởi Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường và Thủ tướng Đức Angela Merkel.

Một tòa án đã chấp nhận đơn tái cơ cấu của các chủ nợ của Huachen, công ty có hơn 40.000 người và có tài sản trị giá 190 tỷ nhân dân tệ. Huachen nói rằng, nếu không thể tái cấu trúc, họ sẽ tuyên bố phá sản.

Vì sao Huachen vỡ nợ?

Trên thực tế, Huachen với tư cách là một "đầu tàu", hay còn được coi là nhà sản xuất ô tô hàng đầu ở tỉnh Liêu Ninh, họ được sự ủng hộ mạnh mẽ của chính quyền địa phương. Huachen là một công ty nhà nước lớn và có tài sản cốt lõi bao gồm cổ phần hấp dẫn trong liên doanh BMW.

Bước đi xuống
Huachen từng được coi là "đứa con cưng" của tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc.

Liên doanh BMW Brilliance đã bán được kỷ lục 550.000 xe vào năm ngoái và thu về lợi nhuận 7,6 tỷ nhân dân tệ, giúp tạo ra cổ tức 1,8 tỷ đô la Hồng Kông (232,17 triệu USD) cho Huachen.

Trong những ngày đầu của sự bùng nổ ô tô ở Trung Quốc, Huachen đã là một đối thủ lớn, họ bán được hơn 200.000 xe trong năm 2013 với thương hiệu Zhonghua, hay còn gọi là “China”. Họ đang tự tin rằng mình sẽ là nhà sản xuất ô tô nội địa đầu tiên bán tốt dòng xe cao cấp ở Trung Quốc.

Tuy nhiên, các đối thủ của họ đã tăng tốc, trong khi doanh số bán hàng trong nước của Zhonghua giảm xuống chỉ còn 25.270 xe vào năm ngoái và chỉ 5.312 trong ba quý đầu năm 2020.

Các đối thủ của Trung Quốc như Geely và Great Wall đã phát triển các sản phẩm và công nghệ mạnh hơn, trong khi SAIC Motor và Guangzhou Automobile do nhà nước hậu thuẫn phát triển nhờ bí quyết của các đối tác liên doanh.

Trong khi đó, Zhonghua đã không hoạch định các sản phẩm của mình một cách có hệ thống, khiến sản phẩm của họ không đáp ứng được nhu cầu thị trường đang thay đổi một cách nhanh chóng ở Trung Quốc.

Trớ trêu thay, những nỗ lực làm mới danh mục đầu tư của Huachen đã góp phần dẫn đến tình trạng khó khăn hiện tại. Mười bốn trái phiếu đã được phát hành từ năm 2017 đến năm 2020 để đảo nợ, tạo vốn lưu động và tài trợ cho việc nâng cấp sản phẩm và hai dự án nhà máy, khiến Huachen không có khả năng hoàn trả.

Trong một dự án trị giá 7,5 tỷ NDT, Huachen đã lên kế hoạch cải tạo một nhà máy sẽ hoàn thành trong năm nay để tạo ra công suất cho 100.000 xe, trong đó có 30.000 xe điện, dựa trên nền tảng xe hơi mới.

Nhưng khoản đầu tư này đã đến quá muộn khi thị trường xe điện Trung Quốc đã bão hòa và đang trải qua một đợt cắt giảm các khoản trợ cấp mua sắm hào phóng. Huachen đã bỏ lỡ thời điểm hoàng kim khi các thương hiệu Trung Quốc vươn lên.

Mới đây vào tháng 8, Phó chủ tịch Huachen Qi Kai, đã phát biểu tại một hội nghị trong ngành rằng tập đoàn có kế hoạch bán khoảng 1,95 triệu xe mỗi năm vào cuối năm 2025, trong đó có 1 triệu chiếc từ BMW Brilliance JV.

Tuy nhiên, các nhà phân tích gọi mục tiêu đó là phi thực tế. Tập đoàn này chỉ bán được 800.000 xe trong năm ngoái - phần lớn từ liên doanh BMW Brilliance.

Theo Diễn đàn Doanh nghiệp

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
AVPL/SJC HCM 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
AVPL/SJC ĐN 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,650 ▲400K 74,600 ▲400K
Nguyên liệu 999 - HN 73,550 ▲400K 74,500 ▲400K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
Cập nhật: 26/04/2024 13:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.300 ▲300K 75.100 ▲300K
TPHCM - SJC 82.600 ▲300K 84.800 ▲500K
Hà Nội - PNJ 73.300 ▲300K 75.100 ▲300K
Hà Nội - SJC 82.600 ▲300K 84.800 ▲500K
Đà Nẵng - PNJ 73.300 ▲300K 75.100 ▲300K
Đà Nẵng - SJC 82.600 ▲300K 84.800 ▲500K
Miền Tây - PNJ 73.300 ▲300K 75.100 ▲300K
Miền Tây - SJC 82.800 ▲800K 85.000 ▲700K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.300 ▲300K 75.100 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.600 ▲300K 84.800 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.300 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.600 ▲300K 84.800 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.300 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.250 ▲350K 74.050 ▲350K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.290 ▲260K 55.690 ▲260K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.070 ▲200K 43.470 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.560 ▲150K 30.960 ▲150K
Cập nhật: 26/04/2024 13:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,335 ▲30K 7,540 ▲30K
Trang sức 99.9 7,325 ▲30K 7,530 ▲30K
NL 99.99 7,330 ▲30K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,310 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,400 ▲30K 7,570 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,400 ▲30K 7,570 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,400 ▲30K 7,570 ▲30K
Miếng SJC Thái Bình 8,280 ▲50K 8,480 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 8,280 ▲50K 8,480 ▲50K
Miếng SJC Hà Nội 8,280 ▲50K 8,480 ▲50K
Cập nhật: 26/04/2024 13:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,800 ▲800K 85,000 ▲700K
SJC 5c 82,800 ▲800K 85,020 ▲700K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,800 ▲800K 85,030 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,350 ▲250K 75,050 ▲250K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,350 ▲250K 75,150 ▲250K
Nữ Trang 99.99% 73,150 ▲250K 74,250 ▲250K
Nữ Trang 99% 71,515 ▲248K 73,515 ▲248K
Nữ Trang 68% 48,145 ▲170K 50,645 ▲170K
Nữ Trang 41.7% 28,615 ▲104K 31,115 ▲104K
Cập nhật: 26/04/2024 13:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,112.17 16,274.92 16,797.08
CAD 18,090.44 18,273.17 18,859.45
CHF 27,072.22 27,345.68 28,223.04
CNY 3,429.67 3,464.31 3,576.00
DKK - 3,579.44 3,716.52
EUR 26,496.28 26,763.92 27,949.19
GBP 30,880.63 31,192.55 32,193.34
HKD 3,156.04 3,187.92 3,290.20
INR - 303.48 315.61
JPY 157.98 159.58 167.21
KRW 15.95 17.72 19.33
KWD - 82,209.56 85,496.44
MYR - 5,249.99 5,364.51
NOK - 2,265.53 2,361.72
RUB - 261.73 289.74
SAR - 6,740.29 7,009.77
SEK - 2,281.68 2,378.56
SGD 18,179.62 18,363.26 18,952.42
THB 605.24 672.49 698.24
USD 25,118.00 25,148.00 25,458.00
Cập nhật: 26/04/2024 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,303 16,403 16,853
CAD 18,307 18,407 18,957
CHF 27,283 27,388 28,188
CNY - 3,456 3,566
DKK - 3,593 3,723
EUR #26,700 26,735 27,995
GBP 31,286 31,336 32,296
HKD 3,160 3,175 3,310
JPY 158.87 158.87 166.82
KRW 16.6 17.4 20.2
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,270 2,350
NZD 14,850 14,900 15,417
SEK - 2,278 2,388
SGD 18,171 18,271 19,001
THB 631.13 675.47 699.13
USD #25,120 25,120 25,458
Cập nhật: 26/04/2024 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 26/04/2024 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25115 25115 25445
AUD 16316 16366 16868
CAD 18338 18388 18839
CHF 27474 27524 28086
CNY 0 3458.5 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26898 26948 27650
GBP 31401 31451 32111
HKD 0 3140 0
JPY 160.45 160.95 165.46
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0313 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14883 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18403 18453 19014
THB 0 643.1 0
TWD 0 779 0
XAU 8250000 8250000 8420000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 13:00